Hộ gia đình tôi năm 1989 được UBND huyện cấp đất ở, diện tích là 200m2 sát đường quốc lộ. Việc giao đất tại thực địa do UBND xã thực hiện nhưng không có giấy tờ thể hiên mốc giới cách mép đường là bao nhiêu. Hiện nay đo đến sát mép đường vẫn là 200m2. Nay, UBND thu hồi 30m2 để mở rộng đường nhưng không bồi thường, không có quyết định thu hồi đất vì cho rằng phần đất bị thu hồi nằm trong hành lang an toàn giao thông.
Gia đình tôi không đồng ý và không thực hiện yêu cầu trả đất cho hội đồng GPMB. UBND huyện đã tổ chức cưỡng chế (không có quyết định cưỡng chế)
Vậy tôi muốn hỏi phần đất nhà tôi bị thu hồi có được bồi thường không và việc việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND đúng hay sai.
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục Tư vấn luật đất đai của Công ty Luật Hồng Bàng
Trả lời:
Cám ơn bác đã gửi câu hỏi của mình đến Luật Hồng Bàng. Với nội dung yêu cầu tư vấn của bác, Luật Hồng Bàng xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
- Cơ sở pháp lý:
- Luật đất đai 2013
- Nghị định số 100/2013/NĐ- CP quy định về bảo vệ quản lí kết cấu hạ tầng giao thông quy định hành lang giao thông
- Nội dung tư vấn
Thứ nhất, vấn đề xác định đất có được bồi thường:
Việc đất bị thu hồi có được bồi thường không phụ thuộc vào hồ sơ đất, nguồn gốc đất để xác định đất có được sử dụng hợp pháp hay không. Và quan trọng nhất là có đủ tài liệu chứng minh sự hợp pháp đó hay không.
Căn cứ khoản 1 điều 75 luật đất đai 2013 thì
“1. Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền hàng năm, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhân quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhân quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ( sau đây gọi chung là giấy chừng nhận) hoặc có đủ điều kiện để dược cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của luật này mà chưa được cấp…”
Trong trường hợp của gia đình không nói rõ hộ gia đình bác có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hay chưa nên có 2 giả thiết:
Thứ nhất: giai đình bác có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Thứ hai hộ gia đình bác không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng hộ gia đình bác năm 1989 được nhà UBND huyện cấp đất ở, diện tích là 200m2 sát đường quốc lộ nên gia đình bác có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại điều 100 luật đất đai 2013
Với cả 2 giả thiết trên thì gia đình bác đều đủ điều kiện để được bồi thường khi thu hồi đất vì thế việc UBND không bồi thường cho gia đình bác cũng là trái pháp luật
Ngoài ra UBND huyện thu hồi 30m2 để mở rộng đường quốc lộ và cho rằng phần đất bị thu hồi nằm trong hành lang an toàn giao thông nên không có quyết định thu hồi và không bồi thường:
Theo nghị định số 100/2013/NĐ- CP quy định về bảo vệ quản lí kết cấu hạ tầng giao thông quy định hành lang giao thông tại điều 15 thì: Hành lang an toàn đường bộ là dải đất dọc hai bên đất của đường bộ nhằm bảo đảm an toàn giao thông và bảo vệ công trình đường bộ. Giới hạn hành lang an toàn đường bộ xác định theo quy hoạch đường bộ được cấp có thẩm quyền phê duyệt và được quy định như sau:
“1. Đối với đường ngoài đô thị: Căn cứ cấp kỹ thuật của đường theo quy hoạch, phạm vi hành lang an toàn đường bộ có bề rộng tính từ đất của đường bộ trở ra mỗi bên là:
a) 17 mét đối với đường cấp I, cấp II;
b) 13 mét đối với đường cấp III;
c) 09 mét đối với đường cấp IV, cấp V;
d) 04 mét đối với đường có cấp thấp hơn cấp V.
Đối với đường đô thị, giới hạn hành lang an toàn đường bộ là chỉ giới đường đỏ theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt”
Gia đình bác được UBND huyện cấp cho 200m2 đất sát mép đường quốc lộ thì có thể thấy ngay rằng có một phần đất của gia đình bác nằm trên phần đất hành lang an toàn giao thông quốc lộ. Tuy nhiên việc sử dụng này là do năm 1989 hộ gia đình bác được UBND huyện cấp cho 200m2 sát đường quốc lộ hiện nay đo tới sát mép đường vẫn là 200m2. Như vậy có thể kết luận trường hợp sử dụng đất trên hành lang an toàn giao thông quốc lộ của hộ gia đình bác không phải do hộ giai đình bác lấn chiếm hay do lỗi vi phạm của gia đình bác mà do UBND huyện thực hiện giao đất hành lang cho hộ gia đình bác. Chính vì thế trong trường hợp này hộ gia đình bác không có lỗi vi phạm và đủ điều kiện được bồi thường
Từ hai căn cứ trên có thể xác định việc hộ gia đình bác không được bồi thường là sai.
Thứ hai việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện là đúng hay sai?
Việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện trên là sai.
UBND huyện khi thu hồi đất không có quyết định thu hồi, không có quyết định cưỡng chế thu hồi mà vẫn tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. Căn cứ điểm d khoản 3 điều 69 luật đất đai 2013 :
“ Trường hợp người có thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại điều 71 của luật này”
Và quy định về điều kiện để thực hiện cưỡng chế thu hồi đất được quy định tại khoản 2 điều 71 luật đất đai 2013
Như vậy chỉ được phép ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất khi đã tuân thủ các trình tự, thủ tục thu hồi đất mà ở đây UBND huyện đã không làm theo đúng trình tự thủ tục thu hồi đất. UBND huyện chưa có quyết định phê duyệt phương án bồi thường, chưa có quyết định thu hồi đất cho người bị thu hồi vì thế cũng không có căn cứ để ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất mà UBND huyện đã thực hiện cưỡng chế thu hồi đất là sai, trái với quy định của pháp luật về thu hồi đất.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi dựa trên thông tin bác cung cấp. Để thuận lợi và đảm bảo việc tư vấn được chính xác chúng tôi cho rằng các bên cần có buổi gặp trực tiếp để trao đổi, để có thể đưa ra các yêu cầu và nội dung tư vấn.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp quý khách hàng giải đáp những quy định pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất để giải quyết những vướng mắc của quý khách hàng./.
Trân trọng!
——————————————————————–
MỌI THẮC MẮC QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ CÔNG TY LUẬT HỒNG BÀNG ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN CHI TIẾT:
CÔNG TY LUẬT HỒNG BÀNG
Điện thoại: 0912 35 65 75 – 0968 35 65 75 (Luật sư Nhật Nam)
Tổng đài tư vấn trực tuyến: 1900 6575
Email: Lienheluathongbang@gmail.com