Công ty Luật Hồng Bàng xin gửi tới quý khách hàng bài viết về Ai là người có quyền đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích? Để được giải đáp những vướng mắc về các vấn đề pháp lý cũng như tiết kiệm thời gian và công sức của bản thân, xin quý khách liên hệ với chúng tôi qua tổng đài 1900.6575.
- Khái niệm sáng chế, giải pháp hữu ích
- Theo luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, sáng chế là sản phẩm hoàn toàn mới, có tính sáng tạo cao mà bình thường, mọi người không thể nghĩ ra được. Nó có khả năng ứng dụng trong công nghiệp và đời sống. Thời hạn được bảo hộ trong vòng 20 năm tính từ ngày chủ thể nộp đơn hợp lệ.
- Giải pháp hữu ích là những sản phẩm chế tạo ra nhằm cải tiến hoặc làm tăng thêm chức năng của các sáng chế đã có trước đó. Thiết bị này góp phần làm cho sản phẩm trở nên hữu ích hơn, giải pháp hữu ích được bảo hộ trong thời gian 10 năm.
Đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích, nếu được công nhận thì quyền sở hữu được xác lập theo văn bằng bảo hộ do Cục Sở hữu trí tuệ cấp (Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích). Tuy nhiên, trên thực tế và theo quy định của pháp luật, không phải lúc nào cá nhân, chủ thể tao ra tác phẩm cũng sẽ là tác giả của văn bằng bảo hộ.
- Những người có quyền đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích theo quy định của pháp luật Việt Nam
+ Tác giả là người tạo ra sáng chế, giải pháp hữu ích bằng công sức và chi phí của mình;
+ Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả, dưới hình thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trường hợp Nhà nước đầu tư toàn bộ kinh phí, phương tiện vật chất – kỹ thuật thì quyền đăng ký thuộc về tổ chức, cơ quan được nhà nước giao thực hiện nhiệm vụ này sẽ có trách nhiệm đại diện cho nhà nước để đăng ký.
+ Trong trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra sáng chế, giải pháp hữu ích thì các tổ chức, cá nhân đó đều có quyền đăng ký và quyền đăng ký này chỉ được thực hiện khi tất cả các tổ chức, cá nhân đó đều đồng ý.
+ Trường hợp nhà nước góp một phần kinh phí – điều kiện kỹ thuật thì một phần đăng ký tương ứng với tỷ lệ góp vốn thuộc về nhà nước.
+ Trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở hợp tác nghiên cứu giữa cơ quan nhà nước với tổ chức cá nhân khác, nếu trong hợp đồng hợp tác không có quy định nào khác, thì phần quyền đăng ký tương ứng với tỷ lệ đóng góp của nhà nước trong việc hợp tác nghiên cứu.
+ Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký thì có quyền chuyển giao quyền đăng ký đó cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, có quyền để thừa kế quyền nộp đơn, hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật, kể cả trong trường hợp đã nộp đơn đăng ký (Điều 86 Luật SHTT, Điều 9 nghị định 103/2006/NĐ-CP).
TRÂN TRỌNG!